Tin Diễn Đàn VNTB – Sự Thật ( Phần 1): Nền giáo dục và y tế ưu việt dưới thời Việt Nam Cộng Hòa

VNTB – Sự Thật ( Phần 1): Nền giáo dục và y tế ưu việt dưới thời Việt Nam Cộng Hòa


Copyright (C) https://vietnamthoibao.org https://vietnamthoibao.org/vntb-su-that-phan-1/ .

Phạm Bá Hoa   (VNTB) – Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ tự do có nền kinh tế phát triển hơn hẳn Miền Bắc Cộng Sản và các quốc gia lân bang   Với lá Thư này, tôi tóm lược bài viết dài 15 trang với tựa “Những Sự Thật Cần Phải Biết” của tác giả Đặng Chí Hùng (Danlambao), tự nhận là bản thân sinh ra và lớn lên giữa xã hội toàn trị của Đảng Cộng Sản.  Những năm sau năm 1975, đã nhận ra sự thật hoàn toàn trái ngược với những gì mà nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam giáo dục trong học đường và tuyên truyền trong xã hội. Sự Thật mà tác giả trình bày trong nội dung, là Sự Thật của Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam), Sự Thật của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt Nam) + Sự Thật của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (toàn cõi Việt Nam). Tôi xin phép tác giả, vì bài quá dài nên tôi phải tóm lược đến 3 lần để rút ngắn lại theo số trang của lá Thư, tôi có thêm vài nhóm chữ và hình cho rõ nghĩa, nhưng vẫn giữ nội dung của bài viết. Xin cám ơn.  Đôi lời của tác giả trước khi vào bài. Thưa các bạn, tôi là một người trẻ tuổi, chưa một lần biết đến ngôi trường của Việt Nam Cộng Hòa, cũng chưa từng được sống dưới chế độ tự do đó. Tuy nhiên, qua nhiều sách báo, tài liệu, và nhân chứng sống, cộng với những gì mắt thấy tai nghe, và sự suy nghĩ của mình, tôi nhận thấy một điều: “Đó là một chế độ khác hẳn với những lời tuyên truyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam”. Và tác giả vào bài với một câu tự hỏi: “Nếu Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ thối nát như Đảng đã tuyên truyền, thì tại sao hằng mấy triệu người Miền Nam chạy ra hải ngoại vẫn nuối tiếc chế độ đó? Và hằng triệu người miền Bắc sau năm 1975 vào sống chung với những triệu người miền Nam, đều khâm phục người Miền Nam rất chân thành và nhân nghĩa? Vậy, Việt Nam Cộng Hòa phải là chế độ phục vụ người dân mới thu hút được lòng người”. Đó cũng là lý do tôi viết bài này, để chứng minh những sự thật về một nhà nước tự do dân chủ Việt Nam Cộng Hòa, đã bị chính sách tuyên truyền dối trá của Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) chúng ta mạt sát, trong mục đích cuốn người dân xã hội chủ nghĩa vào cuộc chiến xâm lược Miền Nam cho cộng sản Nga cộng sản Tàu. Và tôi xin nhắn gởi: Đến những người yêu mến Việt Nam Cộng Hòa, dù đã từng sống hay chỉ biết qua sách vở, lời khẳng định của tôi là các bạn yêu mến không hề nhầm lẫn. Đến những người bị lừa dối hy sinh cho ĐCSVN -nhất là thế hệ cha ông của tôi- là lời chân tình để giúp các bạn thật sự nhận ra bản chất của ĐCSVN, và ông hồ chí minh đã lừa dối họ bao lâu nay. Đến những người còn vì miếng ăn mà tiếp tục dối trá với dân tộc, thì hãy tỉnh lại đi vì sự thật đã phơi bày tất cả rồi. Đừng tự lừa dối mình và lừa dối nhân dân nữa, hãy để cho lương tâm con người được sống với sự thật. Việt Nam Cộng Hòa với chế độ tự do, Việt Nam Cộng Sản chúng ta với chế độ độc tài. Trong bài “Sự thật về đại thắng mùa xuân 1975”, tôi đã chứng minh thất bại của Việt Nam Cộng Hòa không hèn kém như cộng sản chúng ta bịa đặt, mà họ bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi. Nhưng cũng nên biết rằng, vào thời gian ấy, Hoa Kỳ vừa tự cứu mình về uy tín chính trị, vừa tránh lún sâu vào chiến tranh Việt Nam. Và tôi khẳng định là Hoa Kỳ không hề xâm lăng Việt Nam, mà ĐCSVN tuyên truyền để lừa bịp lòng yêu nước của nhân dân ta. Tại sao tôi khẳng định điều này: Dù bất cứ ai cũng có thể thấy quân đội Hoa Kỳ đến Việt Nam Cộng Hòa, họ không chiếm một tấc đất hay một hòn đảo của miền Nam, mà trái lại họ giúp xây dựng miền Nam nói chung, và Sài Gòn nói riêng. Một Sài Gòn tự do và phồn vinh mà trước năm 1975 Á Châu tôn vinh là Hòn Ngọc Viễn Đông, ngay cả Singapore hay Hong Kong lúc ấy còn đứng sau Sài Gòn. Năm 1961, khi Việt Nam Cộng Hòa ký Hiệp Ước quân sự với Hoa Kỳ, thì Hoa Kỳ chỉ đưa vào miền Nam các Cố Vấn và một ít quân để bảo vệ các cơ sở của họ. Nhiệm vụ chính là giúp Việt Nam Cộng Hòa phát triển xã hội. Năm 1965, Hoa Kỳ đưa quân vào miền Nam vì sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964 giữa Hoa Kỳ với miền Bắc chúng ta, để giúp Việt Nam Cộng Hòa chống lại cuộc chiến mà chúng ta bắt đầu từ năm 1960, và ngày càng leo thang trên lãnh thổ của họ. Vậy là, chính chúng ta xâm lược Việt Nam Cộng Hòa chớ đâu phải Hoa Kỳ, vì Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chúng ta là một quốc gia, quân của quốc gia chúng ta tấn công họ là xâm lược chớ gì nữa. Rồi cộng sản chúng ta vu khống Hoa Kỳ là xâm lược để kích động chiến tranh theo lệnh cộng sản Nga, cộng sản Tàu. Trong khi đó Trung Cộng đã chiếm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa hồi năm 1958 chỉ bằng một tuyên bố của Quốc Hội của họ, ngay sau đó là Công Hàm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, và Thủ Tướng Phạm Văn Đồng công nhận sự chiếm đóng đó của Trung Cộng. Sau năm 1975, lãnh đạo ĐCSVN lại giao hằng trăm cây số biên giới ở Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, đến Vịnh Bắc Bộ, rồi Boxit Tây Nguyên cho Trung Cộng. Vậy là, kẻ xâm lược Việt Nam chính là Trung Cộng mà họ không tốn một viên đạn, cũng không mất một mạng người, họ chỉ trao cho lãnh đạo Việt Nam ôm chặt “16 chữ vàng và 4 tốt “, và lúc nào nhóm lãnh đạo chúng ta cũng “tri ân sâu nặng” họ. Trong bộ môn lịch sử chương trình lớp 12 của chúng ta, có bài học nặng về tuyên truyền: “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chánh quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước”. Hãy nghe người Liên Xô nói về việc Hoa Kỳ đưa quân vào Việt Nam, để thấy người anh cả của ĐCSVN biết rõ Hoa Kỳ không phải vào Việt Nam “xâm lược” như chính sách tuyên truyền của ĐCSVN. Tài liệu của Liên Xô đăng trong quyển sách “Một Bước Đi Lớn” -do nhóm tác giả đã từng hoạt động trong tổ chức tình báo KGB- và nhà xuất bản quân đội Liên Bang Nga ấn hành năm 1999, nói về hoạt động tình báo của Liên Xô, ở trang 128: “Mỹ không xâm lược Việt Nam như Pháp thực dân làm vào nửa cuối thế kỷ 19, mà Mỹ muốn Việt Nam trở thành một trong những tiền đồn bảo vệ chủ nghĩa tư bản ở Á Châu, ngăn chận Bắc Triều Tiên và Trung Hoa…” Thật ra Trung Cộng muốn Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam để tạo cái cớ Hoa Kỳ xâm lược Việt Nam, từ đó họ ra lệnh cho ông hồ và ĐCSVN thực hiện chiến tranh. Trong quyển sách “Mao: The Unknown Story” của tác giả Jung Chang và Jon Halliday phát hành năm 2005, trang 470 có đoạn:  “Có một nơi gần Trung Quốc, nơi đó có người Hoa Kỳ, và đó là Việt Nam Cộng Hòa. Cuối năm 1963, quốc gia này có khoảng 15.000 cố vấn quân sự Hoa Kỳ. Thêm một đồng minh của Việt Nam Cộng Sản chúng ta khẳng định Hoa Kỳ không hề xâm lược Việt Nam, như cách mà chúng ta tuyên truyền lừa bịp dối trá. Trong cuốn sách có tựa “Đối Nghịch” của tác giả J. Leroy xuất bản tại Pháp năm 2000, ông là đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp. Nội dung phân tách và dẫn chứng về chiến tranh Việt Nam, cho thấy sự đối nghịch cao điểm về ý thức hệ. Trang 187 có đoạn: “Một cuộc chiến tại Việt Nam là điều mà Hoa Kỳ không mong muốn, họ đến với Việt Nam khác hẳn chúng ta hồi thế kỷ trước. Nhưng họ phải đổ quân vào, vì họ không muốn Liên Xô bành trướng tư tưởng của Mác – Lê Nin…” Tác giả J. Leroy rất trung thực khi đánh giá Hoa Kỳ không xâm lược Việt Nam, mà họ chỉ vào Việt Nam trong tình thế bắt buộc chống lại sự bành trướng tư tưởng đỏ của Liên Xô. Với 3 tác giả người Liên Xô, người Trung Cộng, và người Pháp nêu trên, đều nhận định Hoa Kỳ không phải là kẻ xâm lược Việt Nam Cộng Hòa, thì quân đội và viên chức hành chánh của Việt Nam Cộng Hòa đâu có phải là “ngụy quân, ngụy quyền”, mà chúng ta gọi họ như vậy. Chỉ vì cộng sản chúng ta nhồi nhét vào đầu người dân, để cuốn họ vào chiến tranh xâm lược Việt Nam Cộng Hòa. Trong khi chế độ dân chủ non trẻ của miền Nam giáo dục những thế hệ với tư tưởng và ý niệm tốt đẹp về xã hội Miền Nam. Từ năm 1960 đến 1975, tổ chức của Miền Nam rất chuẩn mực của một đất nước văn minh với Tổng Thống và Lưỡng Viện Quốc Hội đều do dân chọn bầu đúng nghĩa. Tự do báo chí thật sự với hơn 50 tờ báo tư nhân các loại tại Sài Gòn. Tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa đã thiết lập ngoại giao với 87 quốc gia trên thế giới, và 6 quốc gia ở cấp bán chánh thức. Miền Nam từ trước đến năm 1975, có hàng chục đảng phái, tổ chức và hoạt động chính trị bình thường. Trong khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, rồi đến Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chúng ta, trong suốt mấy chục năm qua chỉ có một đảng duy nhất là Đảng Cộng Sản. Làm sao chúng ta dám nói là chế độ tự do. Một góc nhìn. Miền Nam tôn trọng tự do đến mức những đồng chí của chúng ta sống với họ, và biểu tình chống họ ngay trên lãnh thổ của họ, mà họ không bắt bớ gì cả. Điều này trái ngược hẳn với chúng ta, khi nhân dân biểu tình chống Trung Cộng xâm lược thì Công An chúng ta đàn áp và bắt giam lập tức. Một góc nhìn khác. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn với những bản nhạc phản chiến vẫn được phép lưu truyền tại miền Nam. Ngay cả bài hát “Màu Tím Hoa Sim” của tác giả Hữu Loan -một nhà thơ nổi tiếng của Miền Bắc chúng ta- vẫn được ca hát tại miền Nam như bất cứ bản nhạc nào của miền Nam. Trong khi đó tại miền Bắc chúng ta đến 1975, và sau năm 1975 trên cả nước, những bản nhạc với nội dung có chút lãng mạn là bị đảng cộng sản chúng ta triệt để cấm đoán, vì lo ngại nó sẽ hủy hoại chính sách tuyên truyền của chúng ta về hận thù Miền Nam. Đến 42 nạn nhân là nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, và trí thức của miền Bắc chúng ta, bị chúng ta trừng phạt trong vụ án “Nhân Văn” và “Giai Phẩm” năm 1955-1956. Hai tạp chí này đều do Phan Khôi làm chủ nhiệm, và Trần Duy là thư ký tòa soạn. Trong cuốn sách nghiên cứu khá sâu sắc về quốc tế cộng sản “Chủ Thuyết Của Chúng Ta” của tác giả A. Schenalder -một đảng viên Đảng Cộng Sản Cộng Hòa Dân Chủ Đức- ấn hành tại Đông Đức năm 1981, trang 189 có đoạn: “Nếu theo tự do như Việt Nam Cộng Hòa, thì Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sẽ bị đánh mất chủ thuyết của mình…”  Nói như Bà Dương Thu Hương, một nữ văn sĩ miền Bắc chúng ta theo đoàn quân xâm lược vào Sài Gòn hồi cuối tháng 4/1975, thì: “Chế độ tại Miền Nam mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải…” Và chính ông Võ Văn Kiệt -cựu Thủ Tướng Việt Nam sau năm 1975- đã thốt lên rằng: “Ngày 30/4/1975 là ngày mà Việt Nam Cộng Hòa chánh thức mất đi trên danh nghĩa, nhưng vẫn tồn tại trong lòng mỗi người yêu dân chủ, tự do. “Đó là ngày của triệu người buồn.” Kinh tế Việt Nam Cộng Hòa hơn hẳn kinh tế Việt Nam Cộng Sản chúng ta. Việt Nam Cộng Hòa giai đoạn 1954-1963 được viện trợ từ Hoa Kỳ, đã nhanh chóng khôi phục kinh tế, trong đó có chính sách “Cải Cách Điền Địa”. Giai đoạn 1963-1975, Miền Nam lại thực hiện chính sách “Người Cày Có Ruộng” mang lại nỗi vui mừng cho người dân nông thôn, vì họ được làm chủ đất thật sự. Trong khi Việt Nam Cộng Sản chúng ta thực hiện chính sách “Cải Cách Ruộng Đất” với Luật ban hành ngày 19/12/1953, lại là thảm họa đối với 172.008 người dân tại 3.341 xã thuộc 15 tỉnh phía bắc miền Trung, và toàn miền Bắc từ 1953 đến 1956. Theo luật, người dân tại mỗi xã, bị xếp vào 5 thành phần: Địa Chủ. Phú Nông. Trung Nông. Bần Nông. Cố Nông. Và thành phần địa chủ bị giết chết theo tỷ lệ 5% người dân tại mỗi xã. Nếu thành phần Địa Chủ không đủ 5%, thì đôn thành phần Phú Nông lên cho đủ 5% để giết. Trên báo Sự Thật số 134 ra ngày 1/6/1950, đăng bức thư ông Hồ gửi thiếu nhi toàn quốc, có đoạn: “Sống ở các nước tư bản, cha mẹ là người lao động bị bóc lột, thì trẻ con cũng bị bóc lột, phải chịu cực khổ”. Điều này cho thấy Đảng Cộng Sản bịa đặt rồi tuyên truyền, vì sự thật là trong xã hội miền Nam, người dân chẳng những không bị bóc lột, mà trái lại mọi người lớn bé đều được chánh phủ họ chăm sóc. Tài liệu trên trang Wikipedia, cho thấy nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa như sau: “Việt Nam Cộng Hòa đã thực hiện chiến lược kỹ nghệ hóa để giảm bớt hàng nhập cảng. Cơ quan thuế vụ đã bảo vệ ngành kỹ nghệ nhẹ. Nền kỹ nghệ Miền Nam bắt đầu với những nhà máy: – Nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961) ở Biên Hòa, cung ứng được 30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy. – Hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với sản suất 13.200.000 thước vải mỗi năm. – Nhà máy thủy tinh Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm. – Hai nhà máy xi măng -ở Hà Tiên và Thủ Đức- với năng suất 540.000 tấn mỗi năm. – Đập thủy điện Đa Nhim, hoàn thành năm 1961. Thêm một thế mạnh đặc biệt của Việt Nam Cộng Hòa là thành phần trí thức được đào tạo kỹ lưỡng, và họ làm việc tận tâm. Về mặt này, miền Nam vượt xa các lân bang cùng thời như Thailand, Malaysia, Indonesia, Singapore. Theo thống kê cho thấy, 3 trong số 4 Kỹ Sư trong toàn vùng khi đó, là công dân Việt Nam Cộng Hòa. Họ quản trị và điều hành những nhà máy bên trên, và: – Khu Kỹ Nghệ Biên Hòa. Khu Kỹ Nghệ Phong Dinh. Trung tâm nguyên tử năng Đà Lạt. Tổng Cục Dầu Hỏa Sài Gòn.           Trung tâm nguyên tử năng Đà Lạt                                                                                                    Năm 1973, họ bắt đầu với kỹ nghệ dầu hỏa. Sau cuộc đấu thầu khai thác dầu hỏa ngoài khơi thềm lục địa, miền Nam cấp giấy phép cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa khai thác 13 địa điểm trong một khu vực 82.000 cây số vuông, khoảng 16% của thềm lục địa. Tháng 10/1974, hãng Mobil khoan mỏ Bạch Hổ tìm được dầu dưới độ sâu gần 3 cây số, và ứớc tính vào cuối 1975 sẽ có ít nhất 20 giàn khoan. Sau năm 1975, các mỏ dầu này do Liên Doanh Vietsopetro của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa chúng ta quản trị và khai thác. Từ năm 1973, Việt Nam Cộng Hòa sử dụng 11 dàn máy tính IBM 360/40 tại Bộ Quốc Phòng và Bộ Giáo Dục, máy IBM 360/50 tại Bộ Tổng Tham Mưu. Lúc đó, trong vùng Đông Nam Á chỉ có Singapore mới có vỏn vẹn 1 máy IBM 360/40.                            Máy tính IBM tại Nam Việt Nam trước năm 1975                                                                                        Hãy xem tác giả Hà Cẩn -Viện Văn Học Trung Cộng- trong quyển sách “Mao Chủ Tịch Của Tôi” xuất bản năm 1997 và tái bản năm 2000, trang 222 có đoạn: “Miền Nam Việt Nam có nền kinh tế phát triển, đó là điều bất lợi cho chúng ta…” Trong cuốn sách tạm dịch ra tiếng Việt là “Liên Xô – Trung Quốc -Việt Nam, Vấn Đề Chưa Được Biết”, của tác giả người Nga, xuất bản năm 1995. Tác giả Ruslan Kobachenko -đảng viên Đảng Cộng Sản Liên Xô- cũng là nhà giáo kiêm nhà nghiên cứu lịch sử Châu Á, từng giảng dạy tại đại học Minsk-Nga, trang 197 có đoạn như sau: “So với Miền Nam, thì đồng chí Miền Bắc của chúng ta thua kém nhiều về kinh tế. Chúng ta đã nhận ra điều này như là một yếu điểm, cần phải được lãnh đạo Miền Bắc sửa chữa, mà đứng đầu là chủ tịch hồ chí minh. Nhưng thật khó mà làm điều này, vì kinh tế Miền Bắc rất lạc hậu và rặp theo mô hình của Trung Quốc”. Theo sách “Lịch sử Kinh tế Việt Nam” 1945-2000, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 thì:“Cho đến 1973, nông dân miền Bắc sản xuất gần 4 triệu tấn gạo, chưa đủ dùng cho nhân dân, vẫn phải nhận viện trợ bột mì và bo-bo từ Trung Quốc và Liên Xô. Miền Bắc chúng ta đến đầu 1972, điện thoại chỉ có trong cơ quan nhà nước, toàn miền Bắc chỉ có 2 đài phát thanh với hệ thống “loa phường” dày đặc, và chưa biết truyền hình là gì cả.” Về thu nhập bình quân. Theo tài liệu kinh tế thì GDP” bình quân đầu người ở miền Nam vào thời trước 1975 là 190 mỹ kim. Thu nhập này tuy chưa cao mấy thời đó, nhưng cao hơn các nước Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ, và Pakistan. Nhìn lại chúng ta 36 năm sau năm 1975 (năm 2011), GDP bình quân đầu người của Việt Nam xã hội chủ nghĩa là khoảng 1.100 mỹ kim, nhưng thua xa Thái Lan (khoảng 4000 mỹ kim). Từ sau khi “thống nhất đất nước”, thì những gì mà Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa chúng ta đang có, đều là lạc hậu.

Copyright (C) https://vietnamthoibao.org https://vietnamthoibao.org/vntb-su-that-phan-1/ .

Related Post

VNTB – Sự Thật ( Phần 2): Nền giáo dục và y tế ưu việt dưới thời Việt Nam Cộng Hòa.VNTB – Sự Thật ( Phần 2): Nền giáo dục và y tế ưu việt dưới thời Việt Nam Cộng Hòa.

Copyright (C) https://vietnamthoibao.org https://vietnamthoibao.org/vntb-nen-giao-duc-va-y-te-uu-viet-duoi-thoi-viet-nam-cong-hoa/ . Phạm Bá Hoa   (VNTB) – Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa áp dụng triết lý giáo dục “nhân bản – dân tộc – khai phóng”